Nhân loại ngày nay đang trải qua thời kỳ
đen tối và đảo lộn về những giá trị luân lý, đạo đức,
cũng như xã hội. Chiến tranh, thiên tai, động đất, hỏa
hoạn, sóng thần, và gần đây nhất là đại dịch Vũ Hán
(Covid 19). Cơn đại dịch bùng phát ngày 12 tháng 12 năm 2019
tại Vũ Hán, Trung Quốc và kéo dài đến tận bây giờ, gieo
kinh hoàng, chết chóc, khiếp sợ, và thiệt hại cho
nhân loại. Nếu chỉ nhìn những biến cố này bằng con mắt
bình thường, người ta sẽ cho đây là những sự kiện tự
nhiên của đất trời, của thay đổi khí hậu, của tiến hóa
về suy tư, và về văn minh con người. Nhưng chiều sâu của
vấn đề không phải hoàn toàn như vậy. Nó có một trận
chiến tiềm ẩn đã được tiên báo trước từ cơn xuất thần
của Đức Giáo Hoàng Leo XIII (1878-1903)), và được lặp
lại bởi Đức Giáo Hoàng Phaolô VI (1963-1978), cũng như
được gọi tên bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
(1978-2005). Bài viết sau đây dựa trên nội dung và tài
liệu của bài The New (& the Old) EvangelizationThe
100 year test do Joe Tremblay đăng trên
CNA - Catholic News Agency, Feb
1, 2013.
Ngày 13 tháng 10 năm 1884, Đức Leo XIII
khi vừa kết thúc thánh lễ, ngài bỗng trở nên xanh mét
rồi ngã quỵ xuống dưới chân bàn thờ như chết. Những
người đứng gần đã tiến lại bên ngài. Họ thấy ngài còn
sống, nhưng rất mệt mã. Hồi tưởng lại thị kiến lúc đó,
ngài kể rằng ngài thấy Satan đến trước ngai Thiên Chúa,
thách thức là có thể phá hủy Giáo Hội của Chúa. Nhưng
Thiên Chúa đã bảo hắn rằng Giáo Hội của Ngài không thể
phá hủy được. Satan bèn đáp lại, “Xin cho tôi một thế kỷ
và nhiều hơn quyền lực cho những kẻ phục vụ tôi, và tôi
sẽ phá hủy được.” Chúa chúng ta đã bằng lòng cho hắn 100
năm cũng như những gì hắn xin.
Cùng lúc đó, Thiên Chúa đã cho ngài thấy
trước những biến cố sẽ xảy ra trong thế kỷ 20. Ngài nhìn
thấy những cuộc chiến, sự vô luân, thảm sát và bách hại
tôn giáo khắp nơi.
Sau thị kiến, Đức Leo XIII đã viết kinh
cầu Tổng Lãnh Thiên Thần Micae để xin Ngài cứu chữa Hội
Thánh, đồng thời ra lệnh toàn thể Giáo Hội đọc sau mỗi
thánh lễ.
Lạy ơn Tổng Lãnh Thiên Thần Micae,
xin giúp chúng con trong cơn giao chiến,
đánh phá sự hiểm ác mưu sâu quỷ dữ.
Chúng con sấp mình nguyện xin Chúa chế trị nó,
cùng xin Nguyên Soái cơ binh trên trời
lấy quyền phép Chúa mà hạ Satan cùng các quỷ dữ,
đang rong ruổi khắp thế làm hại các linh hồn,
bắt chúng giam cầm trong hỏa ngục. Amen.
Kinh này đã được đọc cho đến hết thập
niên 60. Giống như nhiều lời cầu cho Giáo Hội, nó đã
không còn được đọc vào hậu bán thế kỷ 20. Gần đây đại
dịch Vũ Hán đã giết chết hàng triệu sinh linh, gây đau
khổ và kinh hoàng trên khắp thế giới nên nhiều nơi giáo
quyền đã lệnh cho đọc lại kinh này sau mỗi thánh lễ.
Một số phân tích cho rằng “thế kỷ trắc
nghiệm Giáo Hội” của Satan bắt đầu từ năm 1914. Bỏ qua
thời gian chính thức bắt đầu cuộc thử thách này, điểm
quan trọng được ghi nhận là ba năm của Thế Chiến I năm
1917, cùng năm cuộc cách mạng của Đảng Cộng Sản Xô Viết
xuất hiện và tung hoành khắp thế giới, đã khiến Đức Giáo
Hoàng Benedict XV (1914-1922) viết thông điệp “Rao
Truyền Lời Chúa” (On Preaching the Word). Thông điệp này
được coi như một lời tiên tri. Trong đó, ngài đã quảng
diễn vấn đề và cho rằng, nó phải được “quan tâm đặc biệt
như một sự kiện liên quan lớn lao nhất và quan trọng
nhất.”
Ngài đã bàn nhiều hơn về “điều quan tâm
quan trọng” này trong toàn thông điệp.
Năm 1917 cũng là khởi đầu Cuộc Cách Tây
Phương thổi bay mọi ảnh hưởng của ánh sáng Phúc Âm. Cuộc
cách mạng Cải Cách (The Reformation) của Pháp, và như đã
nhắc nhở tới, cuộc Cách Mạng của Nga, là dụng cụ được đề
cao trong kỷ nguyên duy vật chủ nghĩa (secularism).
Chúng đã khiến cho Đức Benedict đi đến kết luật rằng thế
giới đang thay đổi. Ngài tiếp tục viết trong thông điệp:
“Nếu ở mặt khác, khi kiểm nghiệm tình
trạng luân lý công cũng như tư, hiến pháp và luật lệ của
các quốc gia, chúng ta sẽ thấy rằng có một sự khinh
thường và quên sót lớn lao về siêu nhiên, một sự suy sụp
tiếp nối từ nền tảng chính xác của nhân đức Kitô Giáo,
và rằng nhân loại đang ngày càng quay trở lại những thực
hành xấu xa của chủ thuyết ngoại đạo.”
Cùng với sự trở lại của chủ thuyết tà
đạo, dẫn tới sự bất khoan dung về Kitô Giáo. Thực tế,
Giáo Hội đã có nhiều vị tử đạo hơn trong thế kỷ 20 hơn
bất cứ thế kỷ nào khác. Nhưng như những gì tồi tệ đã xảy
ra trên thế giới, bản trắc nghiệm đối với Giáo Hội đã
xảy ra năm mươi năm sau cuộc Cách Mạng Tình Dục (Sexual
Revolution) vào năm 1960. Một cuộc cách mạng tương tự
đã xảy ra năm 1517, kéo theo một số người Công Giáo lìa
bỏ Giáo Hội. Ơn kêu gọi linh mục, tu sỹ giảm sút. Số
người tham dự thánh lễ giảm một cách đáng kể. Hàng giáo
sỹ và giáo dân Công Giáo không còn có chung những thái
độ và cách biểu lộ niềm tin. Và đối với một số người vẫn
duy trì việc tới thánh đường, luân lý và lối sống của họ
cũng bị thử thách như những người ngoài Công Giáo.
Phải chăng, đó là sự bội giáo mà Đức Leo
XIII đã thấy trong thị kiến của ngài. Chúa đã chẳng nói
trong Tin Mừng của Luca, “Không biết khi Con Người đến,
liệu còn tìm thấy đức tin trên mặt đất hay không?” (Luca
18:8)
Những gì Đức Leo XIII đã nhìn thấy vào
ngày 13 tháng 10 năm 1884, một cách chính xác 33 năm
trước ngày phép lạ mặt trời xảy ra ở Fatima – đã quả
quyết, không chỉ bằng những biến cố theo sau đó, nhưng
còn bằng những nguồn đáng tin cậy khác. Việc xấu xa tội
lỗi đánh dấu bên ngoài Giáo Hội cuối thế kỷ 19 và đầu
thế kỷ 20, đã xảy ra liên quan đến kỷ luật của Giáo
Hội. Nó đã khiến Đức Giáo Hoàng Gioan XXIII (1958-1063)
sau này là Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII khi vừa được bầu
lên ngôi giáo hoàng ở tuổi 77, đã nghĩ ngay đến việc
phải triệu tập Công Đồng Vatican II để cứu vãn Giáo Hội
và cứu vãn dân Thiên Chúa. Và Công Đồng đã như một lễ
Hiện Xuống Mới đối với Giáo Hội cũng như toàn thể nhân
loại. Nhưng Satan vẫn không ngừng lôi cuốn và ảnh hưởng
trên sinh hoạt của Giáo Hội, của toàn dân Chúa, cũng như
của nhân loại. Phong trào canh tân quá đà cùng với những
phản đối của nhóm người bảo thủ đã làm dấy lên trận
chiến ngay trong lòng Giáo Hội. Đặc biệt là những ô uế,
xấu xa và ghê tởm của nạn lạm dụng tình dục nơi hàng
giáo sỹ.
Đối với nhiều người thì thời hạn 100 năm
Chúa cho phép Satan đã qua. Nhưng thực tế không phải
vậy. Ngày 29 tháng 6 năm 1972, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI
(1963-1978), giờ là Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã quả
quyết khi ngài nói trong một cuộc triều yết: “Như một
vết nứt mầu nhiệm, không, nó không phải là một cái gì
mầu nhiệm, nhưng từ vết nứt đó hương khói của Satan đã
bay vào đền thờ Thiên Chúa.”
Tai họa lớn nhất của thế kỷ 20 mà Satan
đã muốn gây thiệt hại cho Giáo Hội, đó là ngày 13 tháng
5 năm 1981, Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II (1978-2005) -
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II - bị ám sát tại công
trường Thánh Phêrô bởi Mehmet Ali Agca, một kẻ giết
người chuyên nghiệp, người Thổ Nhĩ Kỳ. Mẹ Thiên Chúa đã
ra tay can thiệp và đã cứu mạng sống của ngài. Đây cũng
là điều trong Bí Mật Thứ Ba của Fatima sau này đã được
công bố. Ngài cũng là vị Giáo Hoàng phải xin lỗi thay
cho hàng giáo phẩm, giáo sỹ, và tu sỹ của mình về những
lạm dụng tình dục đáng xấu hổ và gây gương xấu trong
Giáo Hội. Và mặc dù tiếp theo 10 năm sau đó, Liên Bang
Xô Viết đã sụp đổ ngày 26 tháng 12 năm 1991, nhưng tàn
dư của chủ nghĩa cộng sản còn rơi rớt tại một số quốc
gia vẫn là mối đe dọa cho nền hòa bình thế giới, cũng
như hoạt động của Giáo Hội.
Khoảng một năm sau, ngày 13 tháng 10 năm
1973, Đức Mẹ Akita tại Nhật Bản đã xác nhận điều Đấng
đại diện Chúa Kitô tuyên bố về “hương khói” ấy. Mẹ phán:
“Công việc của quỉ ma sẽ len lỏi ngay cả vào trong Giáo
Hội qua cách thức mà người ta sẽ nhìn các vị hồng y
chống đối hồng y, giám mục chống đối giám mục… Giáo Hội
sẽ đầy dẫy những kẻ thỏa hiệp, cùng với thần dữ sẽ thúc
đẩy nhiều linh mục và các linh hồn tận hiến rời bỏ công
việc phục vụ Chúa.”
Kết quả của 100 năm nỗ lực ra tay khủng
bố Giáo Hội, hãm hại các linh hồn mà Đức Leo XIII đã
nhìn thấy, ngày nay vẫn đang âm ỷ, lan tỏa trong Giáo
Hội, ngay giữa hàng ngũ giám mục, linh mục, và các linh
hồn tận hiến qua những phong trào phong chức cho nữ giới
bị ảnh hưởng bởi Anh Giáo khi Giáo Hội này phong chức
cho một con số đông phụ nữ vào thập niên 1970, phong
trào đòi linh mục lập gia đình, phong trào phong chức
linh mục cho người đã có gia đình. Tất cả những suy nghĩ
và đòi hỏi ấy không phải là những hương khói Satan đang
thổi vào Giáo Hội qua những kẻ nứt về quan điểm thần
học, và sự cắt nghĩa lệch lạc truyền thống Giáo Hội hay
sao? Đặc biệt nhất, điều đang làm cho Giáo Hội đau lòng
là chủ trương và đường lối của hàng giám mục Đức, của
Giáo Hội Đức qua con đường Đồng Nghị hiện nay. Nó như
hình thức một cuộc trưng cầu dân ý để phổ biến những lý
thuyết xem ra rất nhân bản, rất con người, nhưng lại đi
ngược với giáo quyền, giáo huấn, và truyền thống Giáo
Hội.
Ngoài những trận chiến trong lòng Giáo
Hội, đời sống xã hội của con người cũng đang bị Satan
ảnh hưởng và tung hỏa mù. Hương khói của nó mà con người
ngày nay đang hít thở, là bầu khí của nền văn minh mà
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II gọi là “văn hóa sự
chết”, như phong trào ly thân, ly dị, phong
trào bình quyền nữ giới, phong trào phá thai, phong trào
đồng tính luyến ái, phong trào hôn nhân đồng tính, và
phong trào chuyển giới. Nhất là mối đe dọa của việc hình
thành trật tự thế giới mới, một thế giới mà nơi đó Thiên
Chúa không có mặt!
Với những ai thực hành niềm tin Công
Giáo, là giáo sỹ, tu sỹ, hay giáo dân, là người rao
giảng Tin Mừng hay thầy dạy đều cần phải quan tâm đến cả
những lý do tự nhiên và siêu nhiên đang được Satan sử
dụng vào những vấn nạn mà nó hiện hữu bên trong hoặc bên
ngoài Giáo Hội cũng như toàn thế giới.
Năm 1944, linh mục Paul Furley, cựu giáo
sư và khoa trưởng Phân Khoa Xã Hội (Department of
Sociology) Đại Học Công Giáo Hoa Kỳ (the Catholic
University of America) đã xuất bản cuốn sách có tựa đề
Bí Mật Sự Dữ (The Mystery of Iniquity). Trong
cuốn sách này, ngài đưa ra những cái nhìn chuyên môn về
công tác cần thiết để đối phó với những dấu hiệu mà
chúng đang xuất hiện trước con mắt trần của con người.
Nhưng ngài không dừng ở đó. Ngài nói rằng những phương
cách cứu chữa đầy đủ đối với các vấn nạn xã hội đang lan
tràn hàng ngày, đòi hỏi chúng ta phải có cái nhìn bên
kia những nguyên nhân:
“Bí hiểm (bí mật) của tội ác ở ngay trong
hành động. Những biểu hiện của nó không thường xuyên
xuất hiện trên bề mặt của những biến cố; đúng hơn, nó
hoạt động xuyên qua những nguyên nhân thứ hai. Vì thế,
khi tìm kiếm những lý do của các vấn nạn xã hội, người
ta chỉ chú trọng đến những nguyên nhân đối với các vấn
đề đó một cách thường tình tự nhiên và dễ hiểu đối với
lý do con người. Nó chỉ theo sau một chuỗi nguyên nhân
từ xa đủ để con người tìm ra những công việc của Quỉ
dữ.”
Nhưng làm cách nào để có thể nhận ra
những hương khói của Satan, và tránh không để chúng ảnh
hưởng đến sức sống tâm linh? Năm 1971, cha Valinho,
cháu của Nữ tu Lucia (1907-2005) một trong ba trẻ em của
biến cố Fatima, đã viết cho chị một lá thư hỏi về những
biến động của Giáo Hội. Trong thư hồi âm, chị Lucia đã
trả lời: “Thực tế đau lòng là có nhiều người đã để mình
bị nhận chìm bởi làn sóng sùng bái ma quỉ đang phủ kín
thế giới, và họ quá mù tối để không nhìn ra khuyết điểm
của họ.” Và chị tiếp tục viết:
“Dì xác tín rằng, nguyên nhân chính của
ma quỉ trong thế giới hôm nay và sự sa ngã của nhiều
linh hồn tận hiến là thiếu sót sự kết hợp với Thiên Chúa
qua việc cầu nguyện. Ma quỉ rất mực khôn ngoan và tìm
kiếm những điểm yếu kém của chúng ta để tấn công. Nếu
chúng ta không cẩn thận và cậy dựa vào sức mạnh từ Thiên
Chúa, chúng ta sẽ sa ngã, bởi vì chúng ta đang sống
trong một thời điểm quá xấu, mà chúng ta lại yếu đuối,
mỏng dòn.”
Lơ là cầu nguyện. Thiếu sức sống nội tâm
đến từ nguồn mạch Thánh Lễ, Thánh Thể và Lời Chúa là
những kẽ hở của đời sống tinh thần, của đời sống Giáo
Hội. Không trừ một ai dù là giáo hoàng, hồng y, giám
mục, linh mục, tu sỹ hay giáo dân, nếu không có ơn Chúa
sẽ rất dễ trở thành mồi ngon trước những cám dỗ của
Satan và bè lũ của chúng. Đức Leo XIII đã nói trước cho
Giáo Hội biết về chương trình của Satan là dùng thời
gian và quyền lực vô song của những kẻ phục vụ hắn để
phá vỡ Giáo Hội. Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI đã cảm
nghiệm được ảnh hưởng của chương trình này như hương
khói Satan đang len lỏi vào Đền Thờ của Thiên Chúa. Và
Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã gọi nó bằng cái tên
“văn minh sự chết.” Sống trong thế giới hôm nay, để
tránh khỏi ảnh hưởng và hít thở phải hương khói ấy,
chúng ta không còn cách nào khác hơn là suy niệm và thực
hành lời của Chúa: “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi
sa chước cám dỗ. Vì tinh thần mau mắn, nhưng xác thịt
nặng nề.” (Mt 26:41) Và hằng ngày khiêm tốn cầu xin:
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ. Nhưng cứu chúng
con khỏi sự dữ.” (Mt 6:14)
|